Quyết định GĐT tranh chấp về thừa kế tài sản
Nguyên đơn:
Anh Lê Minh Chí sinh năm 1961; trú tại: số 130 tổ 6, ấp Tân Vĩnh, xã Trường An, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
Ông Lê Văn Ba sinh năm 1927; trú tại: số 48/2 đường Phạm Hùng, phường thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
Chị Kim Chi (Lộc) sinh năm 1957; trú tại: số 60 đường Hưng Đạo Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (gồm có 18 người):
1. Ông Phạm Văn Tề sinh năm 1942; trú tại: 56 đường Hưng Đạo Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
2. Bà Tăng Lạc Như; trú tại: số 37, đường Hùng Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
3. Anh Từ Đinh Kiệt sinh năm 1965; trú tại: số 37, đường Hùng Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
4. Bà Văn Nho; trú tại: số 62 đường Hưng Đạo Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
5. Cụ Nguyễn Thành Đỏm (chết); đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Đỏm là bà Nguyễn Xuân Mai; trú tại: số nhà 42/2, đường 2 tháng 9, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
6. Anh Kim Khéo sinh năm 1949 (con của bà Son); trú tại: số 60A đường Hưng Đạo Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
7. Anh Lý Thanh sinh năm 1955 (chồng chị Chi); trú tại: số 60 đường Hưng Đạo Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
8. Đỗ Thanh Hồng; trú tại: 78/40 khóm 3, phường 3, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
9. Anh Nguyễn Trung Hiếu sinh năm 1966 (con bà Điểm); trú tại: 129 tổ 6, ấp Tân Vĩnh, xã Trường An, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
10. Anh Nguyễn Văn Nhựt sinh năm 1949 (con bà Điểm); trú tại: 114A, ấp Tân Vĩnh, xã Trường An, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
11. Anh Nguyễn Nhựt Hồng sinh năm 1951 (con bà Điểm); trú tại: số 137 tổ 7 ấp Tân Vĩnh, xã Trường An, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
12. Chị Kim Ngọc Lan (con của bà Son); trú tại: ấp Hòa Long, xã Phú Hiệp, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
13. Chị Kim Mỹ Hạnh (con của bà Son), trú tại: dãy A khu tập thể công ty dược và vật tư y tế tỉnh Vĩnh Long.
14. Anh Kim Thành Đông sinh năm 1961 (con của bà Son); trú tại: số 130A, tổ 6, ấp Tân Vĩnh, xã Trường An, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
15. Anh Nguyễn Hữu Trí sinh năm 1962; trú tại: số 70/75 đường Trần Phú, phường 4, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
16. Bà Phạm Bạch Cúc, trú tại: số 60 đường Hưng Đạo Vương, phường 11, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
17. Chị Kim Hồng Huệ (con của bà Son); định cư tại Anh.
18. Anh Nguyễn Hiếu Trung (con của bà Điểm); định cư tại Canada, ủy quyền cho anh Nguyễn Trung Hiếu theo giấy ủy quyền tháng 12 năm 2001.
NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/1/1999 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là anh Lê Minh Chí trình bày:
Nguồn gốc căn nhà thờ trên diện tích 1.841m2 đất tại khóm Hưng Đạo Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long của cụ Lê Văn Lịch (anh ruột của cụ Lê Văn Hiển). Theo trích lục địa bộ ngày 20/6/1967 thì nhà đất của cụ Lịch đã chuyển sang cho các ông Lê Văn Dững, Lê Thị Son và Lê Thị Điểm đã được trước bạ ngày 21/12/1964. Theo tờ phân chia gia tài ngày 05/11/1966 của cụ Trần Thị Lụa (vợ của cụ Hiển) thì phần đất trên chia làm 04 phân đều nhau cho 04 người con chung của cụ Hiển và cụ Lụa là các ông bà Lê Văn Ba. Lê Thị Điểm, Lê Văn Dững, Lê Thị Son. Riêng đối với ông Dững kèm theo điều kiện phân chia là khi nào hai con ông Dững đủ 18 tuổi thì giao lại (vì lúc đó anh Trí, anh Bằng con ông Dững chưa đủ 18 tuổi). Vị trí đất ông Dững được hưởng gắn với căn nhà thờ từ thời cụ Lịch để lại. Năm 1989, anh Chí phát hiện được tờ phân chia gia tài trên.
Tài sản của cụ Lịch để lại do bà Son trực tiếp quản lý, khi bà Son chết thì chị Chi quản lý. Nay anh yêu cầu chị Chi trả lại căn nhà và diện tích đất cụ Lụa để lại cho anh theo tờ phân chia gia tài ngày 05/11/1966.
Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/10/2001 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Lê Văn Ba trình bày:
Tài sản cụ Lụa và cụ Hiển để lại là 1.841m2 đất có nguồn gốc là của cụ Lịch (bác của ông). Cụ Lịch chết để lại diện tích đất trên cho con dâu là Trần Thị Được sử dụng. Năm 1945 bà Được cho ông Phong thuê 110m2 thời hạn 30 năm và ông Phong đã xây căn nhà trên phần đất thuê để ở. Khoảng năm 1975-1976 ông Phong bán căn nhà trên cho ông Phạm Văn Tề (Hoàng). Năm 1962 bà Được chết. Cụ Lụa chết năm 1976 có để lại giấy phân chia gia tài ngày 05/11/1966 có nội dung: diện tích đất trên được chia làm 04 phần tính từ Tây sang Đông cho các con gồm: ông Ba, bà Điểm, ông Dững, bà Son. Phần đất ông được hưởng là 460,25m2 trong tổng diện tích 1.841m2 của cụ Lụa. Hiện nay, phần đất này do ông Tề (Hoàng) đang sử dụng 342m2 và chị Kim Chi sử dụng 110m2. Năm 1994, ông có đơn khiếu nại chị Chi tại UBND phường 1, thị xã Vĩnh Long sau đó ông khiếu nại chị Chi tại UBND thị xã Vĩnh Long để đòi diện tích 460,25m2 (phần đất ông hưởng theo tờ phân chia) thì UBND thị xã Vĩnh Long bác đơn yêu cầu của ông và cho rằng ông khiếu nại ông Tề (Hoàng) mới đúng. Ông tiếp tục khiếu nại quyết định số 20/QĐ-UBTX ngày 18/02/1998 của UBND thị xã Vĩnh Long. Nay ông yêu cầu ông Tề và chị Chi trả lại phần đất mà họ đang quản lý cho ông; trả lại bằng giá trị theo giá thị trường.
Bị đơn là chị Kim Chi trình bày:
Nguồn gốc đất chị đang sử dụng là của cụ Lịch để lại. Ngày 21/12/1964 ba người gồm ông Dững, bà Son, bà Điểm có đơn xin cải bộ phần diện tích 1.841m2 từ cụ Lịch sang cho ba người được chính quyền cũ sang tên trước bạ cùng ngày. Căn nhà có nguồn gốc: từ năm 1946-1947 là do cụ Lịch quản lý, từ 1948-1964 là do ông Thanh (con cụ Lịch) và vợ là bà Được quản lý, từ 1965-1967 không ai có tên trong sổ và ngày 22/11/1967 do bà Son đứng tên.
Phần diện tích 1.841m2 đất trước đây có nhiều người sử dụng: Ông Phong sử dụng từ năm 1953, bà Cửu, bà Xoàn Mới sử dụng từ năm 1950, ông Đỏm sử dụng từ 1945; còn căn nhà từ khi bà Được mất năm 1962 thì bà Son quản lý và sử dụng và thực hiện việc kê khai đăng ký. Chị không đồng ý với yêu cầu của anh Chí vì căn nhà thuộc quyền sở hữu của bà Son, bà Son đã sửa chữa nhiều lần không ai tranh chấp, Năm 1998, nhà bị sập, đến tháng 08/1999 UBND phường 1, thị xã Vĩnh Long chấp thuận cho chị xây dựng lại nên chị đã xây nhà kiên cố và không đồng ý trả cho anh Chí.
Đối với phần đất ông Dững được hưởng, khi anh Bằng còn sống thì anh Chí và anh Bằng có đến nhận phần đất và chị giao cho anh Bằng 204m2, sau đó anh Bằng đã chuyển nhượng lại cho bà Văn Nho vào năm 1991, sau đó bà Văn Nho bán cho ông Trương Khung.
Đối với yêu cầu của ông Ba chị cũng không đồng ý vì theo đơn “xin cải bộ ma” ông Ba không có tên và không đứng tên cộng hữu.
Đối với yêu cầu của anh Hồng, anh Nhựt, anh Hiếu con bà Điểm thì do chị đã nhận chuyển nhượng lại phần đất của bà Điểm với giá 30 chỉ vàng 24K, chị đã giao đủ vàng và các con của bà Điểm đã có đơn khước từ hưởng thừa kế của bà Điểm, có công chứng chứng nhận vào năm 1994 nên chị không chấp nhận trả lại giá trị đất theo yêu cầu của anh Hiếu, Hồng và Nhựt.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1, Anh Nguyễn Trung Hiếu, anh Nguyễn Văn Nhựt và anh Nguyễn Nhựt Hồng (đều là con của bà Điểm) trình bày: yêu cầu chị Kim Chi trả lại 460m2 đất theo tờ phân chia gia tài của cụ Lụa lập (mẹ các anh được hưởng 1/4). Bà Điểm (chết 1987) ông Cỏi (cha các anh chết năm 1968) sinh ra 04 người con gồm ba anh và anh Trung hiện đang ở nước ngoài (Canada) có đơn khước từ hưởng di sản. Ngày 01/10/1993, ba anh làm văn tự nhượng phần đất của bà Điểm cho chị Kim Chi với giá 30 cây vàng 24K. Thực tế, chị Chi đã giao cho anh Hiếu 43 chỉ vàng 24K, chị Chi cho rằng thỏa thuận chỉ có 30 chỉ vàng 24K, phần 13 chỉ vàng 24K chị cho thêm là không đúng. Nay các anh yêu cầu trả lại vàng đã nhận và lấy lại đất hoặc bằng giá trị đất.
2, Ông Phạm Văn Tề (Hoàng) (là người mua đất) trình bày: nhà và đất ông nhận chuyển nhượng lại của ông Phong đã làm thủ tục trước bạ sang tên. Tại Quyết định số 58/QĐ.UBTX ngày 21/4/1997 của UBND thị xã Vĩnh Long và Quyết định số 1194/QĐ.UBT ngày 25/9/1997 của UBND tỉnh Vĩnh Long công nhận quyền sử dụng đất cho ông. Hiện nay ông đã được cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà và quyền sử dụng đất hợp pháp nên không đồng ý trả đất cho ông Ba.
3, Bà Văn Nho trình bày: đất bà nhận chuyển nhượng của anh Bằng năm 1991, hiện nay bà đã kê khai, đăng ký được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất hợp pháp nên yêu cầu được tiếp tục sử dụng đất.
4, Bà Tiếu (vợ ông Đỏm) trình bày: bà không đồng ý theo yêu cầu của anh Chí vì phần đất bà đang ở do bà Được cho bà ở từ năm 1956. Hiện nay, Nhà nước đã cất nhà tình nghĩa cho bà, bà và các con bà đang sử dụng đất.
5, Anh Kim Khéo (con của bà Son) trình bày: hiện nay anh đang sử dụng diện tích 243m2 đất theo biên lai đăng ký ngày 03/07/1993, phần đất này do anh Lý Thanh (chồng chị Chi) giao lại cho anh. Hiện nay, anh đã cất nhà kiên cố để ở. Đối với phần thừa kế của bà Son, anh yêu cầu không giao cho chị Chi hưởng. Việc chị Chi có giao cho anh Bằng phần diện tích 204m2 là đúng vì lúc giao anh đã xác định ranh giới đất giữa anh và anh Bằng.
6, Chị Hạnh, chị Đông (con của bà Son) trình bày: phần tài sản của bà Son để lại các chị không có yêu cầu, giao cho chị Chi quyết định.
7, Anh Lý Thanh (chồng chị Chi) trình bày: phần diện tích đất mà anh giao cho anh Khéo sử dụng là của anh do anh nhận chuyển nhượng của bà Xoàn Mới vào năm 1982 được chính quyền chấp thuận. Do anh Khéo không có chỗ ở nên anh mới giao lại cho anh Khéo. Đối với yêu cầu của anh Chí, ông Ba anh không đồng ý.
8, Ông Từ Định Kiệt trình bày: phần nhà đất diện tích 120,6m2 ông mua của anh Lý Thanh vào ngày 02/12/1993 với giá 106 lượng vàng 24K đã làm thủ tục sang tên và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông yêu cầu được tiếp tục sử dụng nhà đất này.
9, Chị Phạm Bạch Cúc trình bày: chị thuê căn nhà số 60 đường Hưng Đạo Vương của chị Chi thời hạn thuê là 04 năm kể từ ngày 28/03/2005 đến hết ngảy 28/03/2009 để kinh doanh với giá 800.000 đồng/tháng. Sau khi thuê chị có sửa chữa căn nhà, chị yêu cầu được tiếp tục hợp đồng theo giao kết giữa hai bên.
10, Ông Nguyên Hữu Trí (đại lý nhựa Nam Hưng) trình bày: ông có thuê căn nhà kho của anh Lý Thanh từ năm 2006 đến 2013 với giá 1.000.000 đồng/tháng, sau đó điều chỉnh lên 1.800.000 đồng/tháng. Ông đã trả tiền trước là 84.000.000 đồng. Ông có đầu tư sửa chữa căn nhà hiện nay.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 12/2009/DSST ngày 28/4/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định (tóm tắt):
Buộc chị Kim Chi phải giao cho anh Minh Chí được quyền sử dụng phần đất diện tích 244,1m2 (trong đó có 162,7m2 trên đất có căn nhà cho thuê để kinh doanh Karaoke và 81,4m2 phía sau căn nhà). Và buộc chị Kim Chi phải giao cho anh Chi được quyền sở hữu căn nhà cấp 04 kết cấu... trên phần đất được giao cho anh Chi. Buộc anh Chí phải hoàn trả trị giá căn nhà này cho chị Chi bằng 61.677.400 đồng và hoàn trả phần chênh lệch trị giá đất cho chị Chi bằng 16.358.300 đồng, tổng cộng bằng 78.035.700 đồng:
Tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê nhà giữa chị Phạm Bạch Cúc với chị Kim Chi. Buộc chị Cúc phải giao trả căn nhà cho chị Chi để chị Chi giao lại cho anh Chí.
Công nhận cho chị Chi được quyền sử dụng 648,2m2 đất (bao gồm cả thừa đất 517 và thửa đất 518) và một phần thửa số 8. Phần đất này hiện nay do chị Chi đang quản lý và sử dụng. Trong đó có phần đất thừa kế của bà Điểm và của ông Ba.
Buộc chị Kim Chi phải hoàn trả trị giá kỷ phần thừa kế cho ông Lê Văn Ba bằng 1.558.501.700 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn Ba đòi ông Phạm Văn Tề (Hoàng) trả lại 342,17m2 đất Công nhận cho ông Phạm Văn Tề được quyền sử dụng đối với phần đất này theo quyết định giải quyết số 1194/QĐ.UBT ngày 25/09/1997 của UBND tỉnh Vĩnh Long.
Tuyên bố vô hiệu tờ sang nhượng đất lập ngày 01/10/1993 giữa anh Nhựt, anh Hiếu, anh Hồng với chị Chi. Buộc chị Chi phải hoàn trả cho anh Hiếu trị giá phần thừa kế bằng 3.196.003.200 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phị tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 08/05/2009, anh Lê Minh Chí và ông Lê Văn Ba có đơn kháng cáo xin xét xử lại.
Ngày 11/05/2009, chị Kim Chi có đơn kháng cáo xin xét xử lại theo hướng bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 08/05/2009, anh Nguyễn Trung Hiếu làm đơn kháng cáo: yêu cầu bà Chi phải trả đủ tiền trừ đi 43 chỉ vàng vì bà Chi có lỗi, số tiền anh yêu cầu là 6.562.286.400 đồng.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 265/2009/DSPT ngày 28/8/2009, Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định (tóm tắt):
Sửa một phần bản án sơ thẩm (thêm phần sau):
Buộc chị Chi phải trả lại 1/4 giá trị quyền sử dụng đất mà anh Nguyễn Hiếu Trung được thừa kế của bà Lê Thị Điểm là 1.661.856,600 đồng, tạm giao cho anh Hiếu nhận quản lý số tiền trên để giao lại cho anh Trung.
Chị Chi được quyền sử dụng 648,2m2 do chị đang quản lý, sử dụng trong đó có cả phần thừa kế của cụ Son, phần đất thừa kế của ông Ba và bà Điểm bao gồm các thừa đất số 517, 518 và một phần thửa số 8. Riêng phần anh Kim Hồng Huệ được hưởng thừa kế từ bà Son, chị Chi được tiếp tục quản lý cho anh Huệ nếu có tranh chấp thì giải quyết bằng một vụ án khác.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Ba đòi ông Phạm Văn Tề trả lại giá trị 342,17m2 đất.
Không chấp nhận yêu cầu của anh Hiếu đòi hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 01/10/1993 giữa anh Nhựt, Hiếu, Hồng với chị Kim Chi. Không chấp nhận yêu cầu anh Hiếu đòi chị Chi phải trả đủ tiền theo giá thị trường.
Tờ khước từ thừa kế ngày 22/12/1994 được ký giữa anh Nhựt; anh Hiếu, anh Hồng với chị Chi có giá trị pháp lý đối với 3/4 tài sản mà anh Hồng, Hiếu, Nhựt được hưởng thừa kế của cụ Điểm thuộc quyền sử dụng của chị Chi.
Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí phúc thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 02/11/2009, chị Kim Chi có đơn khiếu nại xin xem xét giám đốc thẩm lại bản án dân sự phúc thẩm số 265/2009/DSPT nêu trên với nội dung:
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định tờ di chúc ngày 5/11/1966 của cụ Trần Thi Lụa là di chúc có hiệu lực để làm căn cứ phân chia đất là không đúng.
Nhà và đất số 130 tổ 6 ấp Tân Vĩnh, xã Trường An là phần hương hỏa mà cụ Hiển, cụ Lụa và vợ chồng ông Dững, bà Ân sinh sống không đem ra chia.
Tại Quyết định số 13/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 16/2/2011, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 265/2009/DSPT ngày 28/08/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số 12/2009/DSST ngày 28/4/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Vmh Long, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
XÉT THẤY:
Về tố tụng: Anh Nguyễn Hiếu Trung hiện đang định cư ở Canada. Tháng 3 năm 2002, anh Trung có đơn khước từ hưởng di sản thừa kế nhưng không hợp pháp hóa lãnh sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa yêu cầu anh Trung bổ sung đơn hợp pháp và lấy lời khai xem anh Trung có yêu cầu cụ thể gì đối với việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ba anh Hiếu, Nhựt, Hồng với chị Kim Chi hay không là không đúng.
Về nội dung:
Theo Tờ nhìn nhận con và phân chia gia tài ngày 05/11/1966 của cụ Trần Thi Lụa cho các con thì diện tích 1.841m2 tại đường Hưng Đạo Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long được chia đều từ Tây sang Đông lần lượt là ông Lê Văn Ba, bà Lê Thị Điểm, ông Lê Vãn Dững, bà Lê Thị Son mỗi người một phần bằng nhau; riêng bà Ân vợ ông Dững được ở nhà thờ để thờ phụng chồng (nếu không tái giá)... đến năm hai con ông Dững đủ mười tám tuổi thì các người thủ hộ giao nhà thờ để cho hai cháu thờ phụng ông bà. Tuy nhiên, bà Ân không ở nhà thờ trên mà do bà Son ở và quản lý. Tại Quyết định, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định bà Son quản lý căn nhà số 60 đường Hưng Đạo Vương, phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long từ năm 1964, đến năm 1987 bà Son chết, chị Chi quản lý tiếp cho đến nay là trên 30 năm nên không chấp nhận yêu cầu của anh Chí là không đúng vì anh Chí sinh năm 1961 đến năm 1979 mới đủ 18 tuổi. Bà Son quản lý từ năm 1964 đến năm 1979 (15 năm) là có điều kiện; từ năm 1979 đến năm 1987 bà Son chết và năm 1999 anh Chí đã có đơn khởi kiện (20 năm) nên không thể áp dụng khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự để bác đơn khởi kiện của anh Chí.
Thời điểm năm 1966 khi cụ Lụa phân chia đất cho các con thì trên đất đã có một số hộ dân đang sử dụng do bà Được cho thuê, cho ở nhờ như hộ ông Phong, bả Cửu, ông Đởm. Ông Phong khai ông thuê đất của cụ Lịch làm nhà ở, sau đó ông Phong bán lại nhà cho ông Hoàng (Tề); lúc này chị Chi có khiếu nại tranh chấp với ông Hoàng thì tại Quyết định số 1194/QĐ.ƯBT ngày 25/9/1997 của UBNĐ tỉnh Vĩnh Long đã bác đơn khiếu nại của chị Kim Chi, công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho ông Hoàng; còn bà Tiếu (vợ ông Đỏm) khai được cụ Được cho (miệng). Như vậy, Tòa án hai cấp xét xử không xem xét, làm rõ việc cho ở nhờ đối với phần đất ông Đởm là thiếu sót.
Tòa án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 01/10/1993 giữa anh Hiếu, anh Nhựt, anh Hồng với chị Kim Chi là vô hiệu một phần (phần của anh Trung) và buộc chị Chi phải có nghĩa vụ trả lại cho anh Trung 1/4 giá trị quyền sử dụng đất mà anh được hưởng (là 1.661.856.600 đồng) là không đúng vì ba anh Hiếu, Nhựt, Hồng phải là người thanh toán lại cho anh Trung. Hơn nữa, Tòa án cấp sơ, phúc thẩm hủy 1/4 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng lại không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là vi phạm khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005, gây thiệt hại đến quyền lợi của bà Chi như nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ.
Ngoài ra, do bà Son là người quản lý, sử dụng đất từ năm 1964 đến năm 1987, từ năm 1987 cho đến nay chị Chi quản lý nên cần phải xem xét công sức duy trì, quản lý di sản cho bà Son và chị Chi thì mới đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
1- Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 265/2009/DSPT ngày 28/8/2009 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 12/2009/DSST ngày 28/4/2009 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long về vụ án “Tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là anh Lê Minh Chí, ông Lê Văn Ba với bị đơn là chị Kim Chi (Lộc) cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
2- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.