Menu

Tin tức

Quy định pháp luật dư thừa trong việc miễn án phí trong lĩnh vực lao động

Theo Điều 12 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, có 5 trường hợp được miễn nộp án phí, tạm ứng án phí.

Theo đó 5 trường hợp sau đây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí:

- Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật;

- Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự;

- Người khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

- Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín;

- Trẻ em; cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ (Những trường hợp này còn được miễn các khoản tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án).

Tuy nhiên Điều 14 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 lại yêu cầu người lao động phải làm đơn đề nghị để gửi cho Tòa án có thẩm quyền xem xét. Thiết nghĩ, pháp luật đã quy định được miễn thì không nhất thiết bắt buộc người lao động phải làm đơn xin miễn giảm.

Nhà nước ta đang chủ trương cải cách, giảm bớt thủ tục hành chính thì theo quan điểm của cá nhân tôi nên bỏ quy định này đối với trường hợp người lao động đi khởi kiện trong vụ án tranh chấp lao động.

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ UY TÍN - Nơi đặt trọn niềm tin của bạn